“Mong đợi” gì từ các công ty đại chúng, FDI và tư nhân trong năm 2023?
| BĐS
Nhiều chuyên gia kinh tế dự báo, những khó khăn lớn sẽ tiếp tục gây áp lực lên mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong những tháng tới. Và hiện ba “khối động lực” chính của nền kinh tế là doanh nghiệp nhà nước, FDI và doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào thế khó, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 826 doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước, trong đó 673 doanh nghiệp nhà nước và 153 doanh nghiệp có cổ phần, phần vốn góp của nhà nước. Tổng tài sản đạt trên 3,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2020. Vốn chủ sở hữu đạt 1.795.451 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2020. Tổng doanh thu đạt 2.128.254 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 2020.
CÔNG TY NHÀ NƯỚC CHƯA PHÁT TRIỂN TỶ LỆ…
Hiện tổng nợ phải trả của doanh nghiệp đại chúng là hơn 1,9 nghìn tỷ đồng, tương đương năm 2020. Trong đó, nợ ngắn hạn chiếm 53% tổng nợ phải trả của doanh nghiệp trung ương.
Theo Bộ Tài chính, nhóm công ty, công ty, doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con có tổng tài sản gần 3,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 90% tổng tài sản các công ty, doanh nghiệp; tổng doanh thu báo cáo hợp nhất đạt hơn 1,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2020.
Các công ty, tổng công ty, công ty mẹ – con có tổng doanh thu lớn tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp có quy mô lớn như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (440 nghìn tỷ đồng); Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (380 nghìn tỷ đồng); Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (150 nghìn tỷ đồng); Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (114 nghìn tỷ đồng)…
Lợi nhuận trước thuế của các công ty, tổng công ty, công ty mẹ – công ty con đạt 186.371 tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2020, chiếm 91% tổng lợi nhuận trước thuế của các công ty. Các đơn vị có lãi trước thuế cao trên 5 nghìn tỷ đồng vẫn chủ yếu ở các tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn, như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (52 nghìn tỷ đồng); Tập đoàn Viễn thông Quân đội (37 nghìn tỷ đồng); điện lực Việt Nam (18 nghìn tỷ đồng)…
Theo đánh giá của Chính phủ, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp công chưa tương xứng với nguồn lực mà họ nắm giữ. Một số dự án có vốn đầu tư lớn nhưng không hiệu quả, rủi ro cao, phương thức tái cơ cấu kém hiệu quả…
Năm 2021, nhiều công ty đang bắt đầu phục hồi và tăng trưởng trở lại, một số công ty mẹ có tổng doanh thu tăng hơn 30% so với năm 2020 như: Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (tăng 156%); TCT Hợp tác Kinh tế (87%); Công ty TNHH MTV Ứng dụng Kỹ thuật và Sản xuất (77%); Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc tăng (66%)…
Một số doanh nghiệp có lợi nhuận trước thuế năm 2021 sụt giảm mạnh như: Công ty mẹ – Tổng công ty Giấy Việt Nam lãi trước thuế 1 tỷ đồng, tương ứng giảm 90%; Công ty mẹ – Tổng công ty Vận tải Hà Nội lãi trước thuế 1,5 tỷ đồng, giảm 90% (doanh thu giảm dẫn đến lãi trước thuế giảm); Công ty mẹ – Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD) lãi trước thuế 163 tỷ đồng, giảm 52%, doanh thu giảm 42% từ năm 2020…
Có 90/826 doanh nghiệp (chiếm 11% tổng số doanh nghiệp) kinh doanh thua lỗ với tổng số tiền thiệt hại là 16.064 tỷ đồng. 184/826 doanh nghiệp (chiếm 22% tổng số doanh nghiệp) lỗ lũy kế với tổng số lỗ lũy kế là 52,840 tỷ đồng. Trong đó, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam lỗ lũy kế hơn 3 nghìn tỷ đồng; Tổng công ty Đường sắt Việt Nam lỗ gần 2.000 tỷ đồng; Tổng công ty Du lịch Hà Nội lỗ 69 tỷ đồng…
THÔNG BÁO QUYỀN LỢI CÁ NHÂN DOANH NGHIỆP FDI
Trong báo cáo đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI năm 2021 vừa công bố ngày 28/12/2022 của Bộ Tài chính cho thấy, dù tăng trưởng nhưng khối doanh nghiệp này chưa có dấu hiệu cải thiện niềm tin. Theo thống kê, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu và doanh thu đều tăng trưởng ở mức hai con số so với năm 2020. Trong đó, lợi nhuận sau thuế đạt 83.585 tỷ đồng, tăng 29,6% so với năm 2020.
Ngành đóng góp lợi nhuận lớn nhất là chế biến, chế tạo; kinh doanh bất động sản; vận chuyển kho bãi; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí…
Tuy nhiên, số nợ doanh nghiệp FDI năm 2021 cũng tăng 14,7% so với năm 2020, lên 5.261 nghìn tỷ đồng. Một số lĩnh vực có tỷ lệ đòn bẩy cao, chẳng hạn như phương tiện truyền thông, trên bốn; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 3,85 lần; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí gấp 2,93 lần.
Theo VCCI, bên cạnh những đóng góp tích cực, các dự án FDI còn nhiều hạn chế. Có nhiều trường hợp DN FDI chuyển giá, trốn thuế. Một số công ty khác phớt lờ các quy định về môi trường pháp lý…
Đặc biệt, năm 2021, cả nước có hơn 14.200 doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, chiếm 55% tổng số doanh nghiệp, tăng 11% so với năm 2020. Tổng giá trị lỗ hơn 168 nghìn tỷ đồng. Số DN lỗ lũy kế là hơn 16.000 DN, chiếm 62% tổng số DN FDI, tăng 8% so với năm trước. Có hơn 4.400 công ty mất vốn chủ sở hữu, tăng 15% so với năm 2020.
Theo Bộ Tài chính, mặc dù quy mô tài sản tăng nhưng tốc độ tăng nợ phải trả lớn hơn tốc độ tăng vốn chủ sở hữu. Điều này cho thấy việc mở rộng tài sản đến từ nợ nhiều hơn là từ vốn của nhà đầu tư. Tăng trưởng vốn của các công ty FDI chủ yếu đến từ nguồn vốn bên ngoài. Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của một số lĩnh vực còn âm và chưa được cải thiện.
Số nộp ngân sách nhà nước của các công ty FDI không tỷ lệ thuận với tổng vốn đầu tư. Số doanh nghiệp FDI lỗ, lỗ lũy kế và lỗ vốn có xu hướng tăng cả về số lượng và giá trị lỗ. Sản phẩm xuất khẩu của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu là hàng gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động cao, công nghệ thấp, tỷ lệ nội địa hóa thấp.
CẦN HỖ TRỢ THÊM CHO CÁC CÔNG TY TƯ NHÂN
Trong những năm qua, bất chấp những khó khăn do Covid-19 gây ra, khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn cho thấy tốc độ tăng trưởng vượt bậc. Nhưng dù chiếm hơn 97% số doanh nghiệp, đóng góp 45% GDP và 31% thu ngân sách nhà nước, DN tư nhân ở Việt Nam vẫn không được đối xử bình đẳng như DN nhà nước và khu vực FDI.
Tại nhiều diễn đàn kinh tế, các chuyên gia đã chỉ ra DNTN rất khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để có đủ nguồn lực phát triển ổn định, lâu dài.
Mới đây, Hội đồng Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Hội đồng IV), thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã tổng kết, báo cáo Thủ tướng Chính phủ những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt trong những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023.
Như vậy, trên cơ sở phản ánh của doanh nghiệp, hiệp hội từ nửa cuối tháng 10 đến nay, Hội đồng IV đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về một số vướng mắc, thách thức lớn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi và phát triển bền vững của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Hiện DN ở hầu hết các ngành hàng đều cho rằng hoạt động kinh doanh XNK nửa cuối quý IV/2022 và đầu năm 2023 sẽ gặp nhiều khó khăn.
Cơ hội thị trường và đơn hàng cho năm 2023 với nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực đều sụt giảm mạnh, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày, nội thất, nhôm công nghiệp, sắt thép, xi măng… buộc các DN phải cắt giảm lao động, giảm quy mô sản xuất trong những tháng cuối năm 2022.
Chi phí đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam cao và có xu hướng tiếp tục tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh; Lãi suất tăng làm tăng chi phí vốn sản xuất của nhiều doanh nghiệp Việt Nam…
Nhằm hỗ trợ nỗ lực phục hồi của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân trong nước trong bối cảnh doanh nghiệp đang gặp khó khăn lớn về dòng tiền, Hội đồng IV kiến nghị Chính phủ xem xét gia hạn đến hết năm. các hỗ trợ doanh nghiệp đã được phát huy trong thời kỳ dịch bệnh như chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng, chính sách giãn/hoãn áp dụng biểu giá thuê đất mới theo Nghị định số 96/2019/NĐ-CP của Chính phủ ; chính sách tín dụng như giãn nợ, giữ nguyên nhóm nợ…
.
#Mong #đợi #gì #từ #các #công #đại #chúng #FDI #và #tư #nhân #trong #năm
https://vneconomy.vn/co-the-trong-doi-gi-o-khoi-doanh-nghiep-nha-nuoc-fdi-va-tu-nhan-trong-nam-2023.htm